1.2. Định nghĩa cơ sở thường trú
1.2.1. Theo quy định tại Hiệp định, “cơ sở thường trú” là một cơ sở kinh doanh cố định của một doanh nghiệp, thông qua đó, doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh của mình.
Một doanh nghiệp của Nước ký kết được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam nếu hội đủ ba điều kiện dưới đây:
a) Duy trì tại Việt Nam một “cơ sở” như một tòa nhà, một văn phòng hoặc một phần của tòa nhà hay văn phòng đó, một phương tiện hoặc thiết bị,...; và
b) Cơ sở này có tính chất cố định, nghĩa là được thiết lập tại một địa điểm xác định và/hoặc được duy trì thường xuyên. Tính cố định của cơ sở kinh doanh không nhất thiết phụ thuộc vào việc cơ sở đó phải được gắn liền với một vị trí địa lý cụ thể trong một độ dài thời gian nhất định; và
c) Doanh nghiệp tiến hành toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở này.
Ví dụ 8: Công ty X của Trung Quốc mở một gian hàng tại một khu chợ tết của Việt Nam, thông qua gian hàng này công ty X bán các hàng hóa tại hội chợ. Khi đó, gian hàng này sẽ được coi là cơ sở thường trú của công ty X tại Việt Nam.
1.2.2. Một doanh nghiệp của một Nước ký kết sẽ được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh thông qua một cơ sở thường trú tại Việt Nam trong các trường hợp chủ yếu sau đây:
a) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam: trụ sở điều hành, chi nhánh (như chi nhánh công ty luật, chi nhánh văn phòng nước ngoài, chi nhánh các công ty thuốc lá, chi nhánh ngân hàng,...), văn phòng (kể cả văn phòng đại diện thương mại nếu có thương lượng, ký kết hợp đồng thương mại), nhà máy, xưởng sản xuất, mỏ, giếng dầu hoặc khí, kho giao nhận hàng hoá, địa điểm thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên, hoặc có các thiết bị, phương tiện phục vụ cho việc thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam.
Ví dụ 9: Một nhà thầu phụ nước ngoài sử dụng phương tiện, thiết bị và nhân công tham gia vào hoạt động khoan thăm dò dầu khí tại Việt Nam sẽ được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh thông qua một cơ sở thường trú tại Việt Nam.
b) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một địa điểm xây dựng, một công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp, hoặc tiến hành các hoạt động giám sát liên quan đến các địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp nói trên với điều kiện các địa điểm, công trình hoặc các hoạt động giám sát đó kéo dài hơn 6 tháng hoặc 3 tháng (tùy theo từng Hiệp định cụ thể) tại Việt Nam.
Địa điểm, công trình xây dựng hoặc lắp đặt bao gồm địa điểm, công trình xây dựng nhà cửa, đường xá, cầu cống, lắp đặt đường ống, khai quật, nạo vét sông ngòi,... Thời gian (6 tháng hoặc 3 tháng) được tính từ ngày nhà thầu bắt đầu công việc chuẩn bị cho công trình xây dựng tại Việt Nam, như thành lập văn phòng xây dựng kế hoạch thi công, cho đến khi công trình hoàn thiện, bàn giao toàn bộ tại Việt Nam, kể cả thời gian công trình bị gián đoạn do mọi nguyên nhân.
Các nhà thầu phụ của Nước ký kết tham gia vào các công trình xây dựng, lắp đặt hoặc lắp ráp nêu trên cũng được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thông qua cơ sở thường trú nếu hội đủ các điều kiện tại Điểm 1.2.1 nêu trên.
Thời gian thực hiện công trình để xác định cơ sở thường trú cho nhà thầu chính bao gồm tổng cộng thời gian thực hiện các phần hợp đồng của các nhà thầu phụ và thời gian thực hiện của nhà thầu chính.
Ví dụ 10: Công ty Z của Nhật Bản trúng thầu xây dựng một chiếc cầu tại Việt Nam. Hoạt động thi công cầu diễn ra như sau: 5 tháng thi công xây dựng trụ cầu do một nhà thầu phụ Y cũng là một công ty Nhật Bản đảm nhiệm và 3 tháng thi công sàn cầu và hoàn thiện do nhà thầu Z tự thực hiện. Trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 5, Khoản 3, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản, công ty Z được coi là tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thông qua một cơ sở thường trú vì tổng thời gian thi công cầu là 8 tháng (5 tháng + 3 tháng); Công ty Y không được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
c) Doanh nghiệp đó thực hiện việc cung cấp dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tư vấn ở Việt Nam thông qua nhân viên của doanh nghiệp hoặc một đối tượng khác với điều kiện các hoạt động dịch vụ nói trên trong một dự án hoặc các dự án có liên quan, kéo dài tại Việt Nam trong một khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại quá 183 ngày trong mỗi giai đoạn 12 tháng.
Ví dụ 11: Hãng sản xuất máy bay Đ của Thuỵ Điển ký hợp đồng dịch vụ bảo dưỡng máy bay với hãng Hàng không Việt Nam. Theo hợp đồng, trong giai đoạn từ ngày 01/6/2010 đến ngày 30/5/2011, hãng Đ đã cử các đoàn chuyên gia kỹ thuật sang Việt Nam làm việc với tổng số thời gian có mặt tại Việt Nam 190 ngày. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 4, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Điển, hãng Đ được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do các đoàn chuyên gia kỹ thuật đã làm việc tại Việt Nam vượt quá 6 tháng trong giai đoạn 12 tháng.
Ví dụ 12: Công ty tư vấn N của Nhật Bản ký các hợp đồng dịch vụ tư vấn với chủ đầu tư của Dự án xây dựng Nhà máy điện V tại Việt Nam như sau: i) hợp đồng dịch vụ tư vấn xây dựng nhà máy điện kéo dài 4 tháng từ ngày 01/8/2010 đến ngày 30/11/2010, và ii) hợp đồng dịch vụ tư vấn lắp đặt hệ thống máy phát điện kéo dài 3 tháng từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/3/2011. Cả hai hợp đồng đều yêu cầu sự hiện diện của đại diện Công ty tư vấn N tại hiện trường xây dựng và lắp đặt Nhà máy điện V để triển khai công việc trong suốt thời hạn hợp đồng. Để thực hiện hợp đồng dịch vụ tư vấn lắp đặt nhà máy điện, Công ty tư vấn N đã thuê một Công ty tư vấn B của Nhật Bản thực hiện với tư cách đại diện cho Công ty. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 4, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản, Công ty tư vấn N được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do sự hiện diện của đại diện Công ty tại Dự án tại Việt Nam vượt quá 6 tháng trong giai đoạn 12 tháng; Công ty tư vấn B không được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do sự hiện diện của Công ty tại Việt Nam không quá 6 tháng.
Ví dụ 13: Với các giả định như Ví dụ 12, nếu Công ty tư vấn B và chủ đầu tư của Dự án còn ký một hiệp định tư vấn trong giai đoạn chạy thử từ ngày 01/4/2011 đến ngày 30/7/2011. Hợp đồng cũng yêu cầu đại diện của Công ty tư vấn B hiện diện trong suốt thời hạn hợp đồng tại hiện trường chạy thử Nhà máy điện V. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 4, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản, Công ty tư vấn B được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do sự hiện diện của đại diện Công ty tại Dự án tại Việt Nam vượt quá 6 tháng trong giai đoạn 12 tháng.
Liên quan đến việc cung cấp dịch vụ, mặc dù tại Hiệp định có quy định cơ sở thường trú bao gồm việc cung cấp dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tư vấn ở Việt Nam thông qua nhân viên của doanh nghiệp hoặc một đối tượng khác với điều kiện các hoạt động dịch vụ nói trên trong một dự án hoặc các dự án có liên quan, kéo dài tại Việt Nam trong một khoảng thời gian hay nhiều khoảng thời gian gộp lại quá 183 ngày trong mỗi giai đoạn 12 tháng, nhưng do tính chất của dịch vụ, thời gian cung cấp dịch vụ không kéo dài quá 6 tháng trong một giai đoạn 12 tháng, trong khi đó, ba điều kiện về cơ sở thường trú tại Điểm 1.2.1 nêu trên vẫn thỏa mãn thì việc cung cấp dịch vụ vẫn được coi là có một cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Ví dụ 14: Hãng sản xuất máy bay Đ của Thuỵ Điển ký hợp đồng dịch vụ bảo dưỡng định kỳ máy bay với hãng Hàng không Việt Nam trong thời gian hai năm. Theo hợp đồng, hàng năm, Hãng Đ đều cử các đoàn chuyên gia kỹ thuật sang Việt Nam làm việc với tổng số thời gian có mặt tại Việt Nam 90 ngày tại địa điểm bảo dưỡng máy bay. Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 1, Điều 5, Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Điển, hãng Đ được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam do định kỳ hàng năm các đoàn chuyên gia kỹ thuật đã làm việc tại Việt Nam tại một địa điểm cố định tại Việt Nam (các máy bay được bảo dưỡng).
d) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một đại lý môi giới, đại lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác, nếu các đại lý đó dành toàn bộ hoặc phần lớn hoạt động của mình cho doanh nghiệp đó (đại lý phụ thuộc).
Ví dụ 15: Công ty V là đối tượng cư trú của Việt Nam ký hợp đồng đại lý với chức năng lưu kho và giao sản phẩm sơn cho một công ty H là đối tượng cư trú của Anh. Theo quy định tại hợp đồng, công ty V không được phép làm đại lý cho bất cứ một nhà sản xuất hoặc phân phối sơn nào khác. Trường hợp này, mặc dù không có chức năng ký kết hợp đồng hoặc thu tiền tại Việt Nam nhưng công ty V đã trở thành đại lý phụ thuộc của Công ty H, không còn là đại lý độc lập nữa. Theo quy định của Hiệp định giữa Việt Nam và Anh (Khoản 6, Điều 5: Cơ sở thường trú) công ty H được coi là có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
đ) Doanh nghiệp đó uỷ quyền cho một đối tượng tại Việt Nam:
- Thẩm quyền thường xuyên thương lượng, ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp đó; hoặc ký các hợp đồng mang tên đối tượng đó nhưng ràng buộc nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của doanh nghiệp đó; hoặc
- Không có thẩm quyền thương lượng, ký kết hợp đồng, nhưng có quyền thường xuyên đại diện cho doanh nghiệp đó giao hàng hóa tại Việt Nam.
1.2.3. Một doanh nghiệp nước ngoài sẽ được coi là không có cơ sở thường trú tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây:
a) Doanh nghiệp đó sử dụng các phương tiện chỉ nhằm mục đích lưu kho, trưng bày hàng hóa của doanh nghiệp.
b) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một kho hàng hóa chỉ nhằm mục đích lưu kho, trưng bày hoặc để cho một doanh nghiệp khác gia công.
c) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm mục đích mua hàng hóa hoặc thu thập thông tin cho doanh nghiệp.
d) Doanh nghiệp đó có tại Việt Nam một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm mục đích tiến hành các hoạt động chuẩn bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp.
1.2.4. Trường hợp một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư trú của Việt Nam, hoặc đang tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (có thể thông qua cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của công ty kia.
Ví dụ 16: Một doanh nghiệp nước ngoài góp vốn thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Khi đó, doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài này không được coi là các cơ sở thường trú tại Việt Nam của doanh nghiệp nước ngoài đó.
Tuy nhiên, trường hợp công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết Hiệp định với Việt Nam góp vốn thành lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp chế xuất) thì công ty đó sẽ được coi như có một cơ sở thường trú tại Việt Nam nếu:
- Doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thường xuyên thương lượng, ký kết hợp đồng đứng tên công ty đó; hoặc ký các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng ràng buộc nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của công ty nước ngoài; hoặc
- Doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thường xuyên đại diện cho công ty nước ngoài giao hàng hóa tại Việt Nam; hoặc
- Công ty nước ngoài đó có quyền định đoạt đối với cơ sở vật chất - kỹ thuật của doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đó trong quá trình sản xuất kinh doanh (nghĩa là, việc công ty nước ngoài sử dụng các cơ sở vật chất - kỹ thuật của doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam (nếu có) trong quá trình sản xuất kinh doanh không phải trên cơ sở nguyên tắc giá thị trường).
--------------------
1.2. Definition of permanent establishment
1.2.1. Under the Agreements, “permanent establishment” means a fixed place of business of an enterprise, through which the business of the enterprise is wholly or partly carried on.
An enterprise of a Contracting State shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam if it fully satisfies the following three conditions:
a) Maintaining in Vietnam an “establishment”, for example a building, an office or part thereof, a means or equipment, etc; and
b) This establishment must be fixed, i.e. it must be established at a specified place and/or maintained on a permanent basis. The fixedness of a business establishment must not necessarily mean that such establishment must be attached to a specific geographical point for a certain length of time; and
c) The enterprise carries on wholly or partly business activities through this establishment.
Example 8: Chinese company X opens a stall in a Tet (New Year) market place in Vietnam, through which it sells goods items. Then, this stall shall be regarded as a permanent establishment of company X in Vietnam.
1.2.2. An enterprise of the Contracting State shall be regarded to conduct business activities through a permanent establishment in Vietnam in the following major cases:
a) That enterprise has in Vietnam: place of management, branch (such as branch of a law firm, branch of a foreign office, branch of a tobacco company, branch of a bank, etc.), office (including commercial representative office authorized to negotiate and sign commercial contracts), factory, workshop, mine, oil or gas well, forwarding storehouse, a place of exploration or exploitation of natural resources, or has equipment, facilities used for the exploration and exploitation of natural resources in Vietnam.
Example 9: A foreign subcontractor that uses means, equipment and labor for participation in oil and gas exploration activities in Vietnam shall be regarded to conduct business through a permanent establishment in Vietnam.
b) That enterprise has in Vietnam a building site, a construction, installation or assembly project, or carries on supervisory activities in connection therewith, provided that such site, project or activities last for more than 6 months or 3 months (depending on each Agreement) in Vietnam.
Building sites, construction or installation projects include the building site, construction of houses, roads, bridges, sewerage, installation of pipelines, excavation, dredging, etc. The period (of 6 months or 3 months) is calculated from the date the contractor commences the preparation for the construction in Vietnam, such as establishing its office, planning the construction design, until the completion and transfer of the entire construction project in Vietnam, including the time of discontinuance of the project for any reasons.
Sub-contractors of the Contracting State participating in the aforementioned construction or installation projects shall be also regarded to conduct business in Vietnam through permanent establishments if they meet all conditions stated at Point 1.2.1 above.
The time of execution of projects for the determination of permanent establishments for principal contractors shall be the sum of the time for the execution of contractual components by sub-contractors and the time of execution by the principal contractor.
Example 10: Japanese company Z wins the bid for building a bridge in Vietnam. Bridge-building activities proceed as follows: 5 months of building bridge piles by sub-contractor Y that is also a Japanese company and 3 months of building the bridge floor and finishing by contractor Z itself. In this case, according to Article 5 Clause 3 of Agreement between Vietnam and Japan, company Z shall be regarded to conduct business in Vietnam through a permanent establishment because the total time of building the bridge is 8 months (5 months + 3 months); company Y is not deemed as a permanent establishment in Vietnam.
c) That enterprise provides services including also consulting services in Vietnam through its staff or another person, provided that these services in a related Vietnam-based project or projects last in a period or periods exceeding 183 days in each 12-month period.
Example 11: A Sweden aircraft-manufacturing company D entered into an aircraft maintenance service contract with Vietnam Airlines. Under this contract, in period from 01/6/2010 to 30/5/2011, it sent teams of technical experts to Vietnam to work for a total of 190 days. So, according to Clause 4 Article 5 of Agreement between Vietnam and Swedish, the company D shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam because teams of technical experts to Vietnam to work for a duration exceeding 6 months in 12-month period.
Example 12. A Japanese Consultancy Company N signs an consultancy contract with investor of project on construction of power plant V in Vietnam as follow: i) contract of consultancy service for power plant construction is prolonged 4 months from 01/8/2010 to 30/11/2011 and ii) contract of consultancy service for installation is prolonged 3 months from 01/01/2011 to 31/3/2011. Both of contracts require the presence of representation of Consultancy Company N at the construction and installation site of power plant V in order to carry out the work during time limit of contract. To perform consultancy contract for power plant installation, the consultancy company N has hired a Japanese consultancy company B for performance as representative for company N. In this case, according to Clause 4 Article 5 of Agreement between Vietnam and Japan, the consultancy company N shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam because the presence of representative of Company at project in Vietnam exceeds 6 months in 12-month period. The consultancy company B shall be not regarded to have a permanent establishment in Vietnam because its presence in Vietnam does not exceed 6 months.
Example 13: With assumptions as example 12, if the consultancy company B and investor of project entered into a consultancy agreement in the course of test operation from 01/4/2011 to 30/7/2011. Contract requires representative of Consultancy Company B to present during time limit of contract at the site of test operation of power plan V. In this case, according to clause 4 Article 5 of Agreement between Vietnam and Japan, the Consultancy Company B shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam because the presence of its representative in Vietnam exceeds 6 months in 12-month period.
Involving service supply, although Agreement prescribed that a permanent establishment includes supply of services in which have consultancy service in Vietnam through employees of enterprise or other and provided that the services above in a project or concerned projects that are prolonged in Vietnam in a duration or many durations aggregating more than 183 days in each 12-month period, but because nature of service, time of service supply does not prolong more than 6 months in a 12-month period, while three conditions of permanent establishment at point 1.2.1 above still satisfy, the service supply still be regarded to have a permanent establishment in Vietnam.
Example 14: Sweden aircraft-manufacturing company D entered into an aircraft maintenance service contract with Vietnam Airlines for two years. Under this contract, annually, it sends teams of technical experts to Vietnam to work for a total of 90 days at location of aircraft maintenance. In this case, according to Clause 1 Article 5 of Agreement between Vietnam and Swedish, the company D shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam because annually teams of technical experts to Vietnam to work at a fixed location in Vietnam (place where aircraft are maintained).
d) That enterprise has in Vietnam a brokerage agent, a commission agent or any other agent, and such agents devote wholly or most of their agency activities for that enterprise (dependent agent).
Example 15. Company V, a resident of Vietnam, signs an agency contract for storage and delivery of paint products with company H, a resident of the Great Britain. Under this contract, company V is not allowed to act as agent for another paint manufacturer or distributor. In this case, though having no function to sign contracts or collect money in Vietnam, company V has become a dependent agent of Company H, not independent. Under the Vietnam-Great Britain Agreement (Clause 6 or Article 5: Permanent establishment), company H shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam.
dd) That enterprise gives for a person in Vietnam:
- An authority to habitually negotiate and conclude contracts in the name of the enterprise; or conclude contracts in his name but bind obligations and duties of that enterprise; or
- No such authority, but the right to habitually represent that company to deliver goods in Vietnam.
1.2.3. A foreign enterprise shall not be regarded to have a permanent establishment in Vietnam in the following cases:
a) That enterprise uses facilities in Vietnam solely for the purpose of storage, display of its goods.
b) That enterprise has a stock of goods in Vietnam solely for the purpose of storage, display or of processing by another enterprise.
c) That enterprise has a fixed place of business in Vietnam solely for the purpose of purchasing goods or collecting information for the enterprise.
d) That enterprise has a fixed place of business in Vietnam solely for the purpose of carrying on preparatory or auxiliary activities for the enterprise.
1.2.4. In cases where a resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam controls, or is controlled by, a company that is a resident of Vietnam, or is conducting business in Vietnam (possibly through a permanent establishment or in other forms), neither of the companies shall become a permanent establishment of another company.
Example 16: A foreign enterprise contributes its capital to a joint-venture company or a company with 100% foreign capital in Vietnam. Then, the joint-venture company or the company with 100% foreign capital shall not be regarded a permanent establishment of that foreign enterprise.
However, in case where a company, resident of the Contracting State to an Agreement concluded with Vietnam, contributes capital in establishment of a joint-venture company or a company with 100% foreign capital in Vietnam (including export processing enterprises), that enterprise shall be regarded to have a permanent establishment in Vietnam if:
- Joint-venture company or company with 100% foreign capital usually negotiates, signs contract in name of such contract; or signs contracts in name of Joint-venture company or company with 100% foreign capital but binding obligations or duties of foreign company; or
- Joint-venture company or company with 100% foreign capital usually represent for foreign company to deliver goods in Vietnam; or
- That foreign company has right to determine the material-technical facilities of Joint-venture company or company with 100% foreign capital during production and business (that is case where foreign company use the material-technical facilities of Joint-venture company or company with 100% foreign capital in Vietnam (if any) during production and business not on the basis of the price market principle).
Source: Circular 205
Bình luận
Gửi bình luận
Hãy nhập đầy đủ các thông tin yêu cầu trong ô có dấu (*). Không được phép sử dụng mã HTML.